| Đinh Tuấn Minh |
Blog của anh Lê Hồng Giang có bàn đến vấn đề đầu cơ dưới tiêu đề "Greed" và "Greed 2". Theo ý kiến cá nhân của tôi thì việc bàn về lòng tham của con người trong nền kinh tế thị trường là bàn đến khía cạnh đạo đức. Về chủ đề này bác Phạm Nguyên Trường và tôi đã dịch khá nhiều bài của các tác giả khác nhau. Các bạn có thể tham khảo series dịch thuật của bác Trường trên blog của bác. Với cá nhân tôi thì tôi cho rằng đây là một bản năng tuyệt vời nhất mà loài người có được để duy trì sự tồn tại. Dẹp lòng tham đi thì chắc loài người vẫn còn đang luẩn quẩn ở mấy dãy núi ở Kenya chứ không sinh sôi nảy nở đc nhiều như hiện nay. Sự khác nhau của các cá nhân là người này tham nhiều về khía cạnh này hay khía cạnh khác hơn người kia mà thôi.
Bây giờ tôi quay sang bàn về vấn đề đầu cơ trên khía cạnh thuần tuý kinh tế, không dính dáng gì đến lòng tham hay đức hạnh gì cả. Những định nghĩa phổ biến nhất về đầu cơ như trên wiki, trên investopedia, đều có ý cho rằng hành động đầu cơ là hành động đầu tư vào những thị trường/hoạt động có mức rủi ro cao hơn mức trung bình để có thể thu được lợi nhuận ở mức cao hơn mức trung bình của thị trường.
Như vậy để xác định hành động nào là hành động đầu cơ theo nghĩa phổ biến hiện nay thì ta phải bắt đầu từ việc liệt kê các hành động có tính rủi ro. Như trong post trước của tôi thì về cơ bản các hành động của con người đều gắn với các yếu tố rủi ro và do vậy đều có tính đầu cơ. Sự khác biệt của nhà đầu cơ chuyên nghiệp là ở chỗ họ take risk cho người khác để kiếm lợi.
Dưới đây tôi liệt kê một số hành động kinh doanh có tính rủi ro tiêu biểu:
1- Hành động khởi nghiệp/sản xuất (entrenpreneurship): tập hợp các yếu tố sản xuất để tạo ra hàng hoá và bán lấy lợi nhuận.
2- Hành động buôn bán (arbitrage): mua hàng hoá ở chỗ này bán sang chỗ khác để hưởng chênh lệch giá.
3- Hành động mua bán cổ phiếu để tham gia điều hành doanh nghiệp nhằm hưởng cổ tức.
4- Hành động mua bán cổ phiếu hoặc các loại tài sản chứng khoán hoá (commodities, tỷ giá,...) để hưởng chênh lệch giá tài sản.
5. Hành động thuộc nhóm 4 nhưng với leverage cao để hưởng lợi nhuân lớn.
6- Hành động bán khống cổ phiếu hoặc tài sản chứng khoán hoá (short-selling) để hưởng chênh lệch giá.
Nền kinh tế xã hội chủ nghĩa trước đây rõ ràng không chấp nhận tất cả các hành động trên. Các nhà kế hoạch hoá tập trung là những người take toàn bộ risk cho nền kinh tế quốc gia để đảm bảo cho dân chúng an hưởng cuộc sống thái bình :). Cái giá phải trả thì chúng ta biết cả rồi.
Trong nền kinh tế thị trường thì chắc không ai phàn nàn gì về nhóm 1, 2, và 3. Phê phán hoặc lên án chủ yếu nhằm vào nhóm 4, 5 và 6. Và những đối tượng này bị gọi là speculator. Anh Lê Hồng Giang có ý cho rằng hành động của nhóm 4 là okay nhưng của nhóm 5 và 6 thì phải kiểm soát đặc biệt là trong bối cảnh khủng hoảng, hỗn loạn. Nhiều bạn cực đoan hơn thì cho rằng phải cấm tiệt các hành động thuộc nhóm 5 và 6 này. Vì lẽ đó nên tôi sẽ tập trung phân tích về vai trò của các nhóm hành động này trong nền kinh tế trong bài viết này.
Bắt đầu bằng hành động nhóm 4 vì đây là hành động cơ bản nhất để hình thành hành động nhóm 5 và 6 hoặc cao hơn nữa. Ý nghĩa của việc mua bán cổ phiếu phiếu để hưởng chênh lệch giá tài sản không đơn thuần chỉ là việc tạo ra thanh khoản cao cho thị trường như bác Giang nói. Ý nghĩa chính của hành động này là ở chỗ những người mua bán giấy tờ có giá là những người tham gia vào rất nhiều thị trường. Họ là những người truyền thông tin về tín hiệu giá cả và qua đó là tín hiệu hiệu quả từ thị trường này sang thị trường khác. Chẳng hạn một người rút vốn khỏi nhóm các doanh nghiệp kinh doanh bất động sản chuyển sang nhóm các doanh nghiệp kinh doanh công nghệ thông tin thì đó là một tín hiệu cho thấy rằng họ nhìn thấy tiềm năng phát triển của thị trường thông tin tốt hơn. Tương tự, khi họ rút tiền ra khỏi một loại đồng tiền nào đó và chuyển sang đồng tiền khác hoặc từ thị trường tiền tệ sang thị trường hàng hoá hay thị trường chứng khoán v.v. thì đều là những tín hiệu phản ánh quan điểm tiêu cực hoặc tích cực của họ về thị trường này hoặc thị trường kia một cách tương ứng.
Nếu không có những người này thì phản ứng của nền kinh tế trước một biến động nào đó trên thế giới sẽ rất chậm chạp. Làm thế nào để tác động của biến động trên thị trường địa ốc ở Tây Ban Nha được cân nhắc trong các quyết định kinh tế Việt Nam ngay tức thì? Đó là nhờ có những speculator trong nhóm 4. Một số người sẽ bán cổ phiếu bất động sản ở TBN; một số người sẽ rút vốn đầu tư khỏi TBN và chuyển sang quốc gia khác; một số người sẽ bán bớt đồng EUR và chuyển sang đồng tiền khác; một số người sẽ bán dầu thô (hợp đồng tương lai) v.v. và tất cả ngay lập tức phản ánh vào hành vi của những nhà đầu tư quốc tế tại Việt Nam, qua đó tác động đến hành vi của các nhà đầu tư trong nước v.v. một dây chuyền giá cả thay đổi như vậy làm sao có thể xảy ra gần như ngay tức thì nếu như không có các speculator này?
Bây giờ ta chuyển sang nhóm 5 và 6. Hành động của hai nhóm này tồn tại là nhờ nhu cầu của nhóm 4. Bản chất của chúng tương tự nhu cầu của nhóm 1 (hành động khởi nghiệp/sản xuất) đối với nhóm 2 (hành động buôn bán). Để hàng hoá sản xuất nhanh chóng đến tay người tiêu dùng và nhận được phản hồi từ người tiêu dùng thì nhà sản xuất không thể tự đứng ra bán hàng mà phải thông qua hệ thống những người buôn bán. Với nhóm 4, để cho giá cả nhanh chóng thay đổi để phản ánh hiệu quả của thị trường này sang thị trường khác thì cần phải có một lượng tiền khổng lồ dịch chuyển thì chỗ này sang chỗ kia. Hành động leverage đơn giản là để huy động lượng tiền lớn hơn trong một thời gian ngắn nhất để chuyển sang cho thị trường được đánh giá tốt hơn. Tương tự hành động short-selling nhằm mục đích chuyển nhanh tài sản từ thị trường được đánh giá là xấu sang thị trường kia.
Để hình dung, bạn hãy tưởng tượng thị trường chứng khoán Việt Nam, nếu giả sử tất cả mọi người tham gia chỉ được chơi tiền "thật" (tức tiền tiết kiệm của mình). Khi có tin tức tốt cho toàn bộ thị trường (ví dụ lạm phát đột ngột giảm xuống 0,1% trong tháng 1 thay vì 1%) thì nếu như với lượng tiết kiệm hiện thời người mua chỉ có thể mua được 1000 tỷ là hết tiền và khi đó thị trường chỉ có thể tăng được 5% trong 1 tháng và để tăng được 20% thì cần phải 5 tháng mới có đủ lượng tiền "thật" tham gia. Nhưng nếu như cho chơi margin thì với tin tức tốt đó chỉ trong 1 tháng thị trường đã tăng đủ 20% thay vì phải chờ 5 tháng. Với tôi thì rõ ràng cho chơi margin phản ánh được sự thay đổi của nền kinh tế tốt hơn nhiều so với không cho.
Well, như vậy nếu các bạn đồng ý với lập luận của tôi ở trên thì problem ở đây không phải là các hành vi speculative trên là không tốt cho nền kinh tế. Chúng rất cần thiết để làm cho nền kinh tế hoạt động hiệu quả trong thời đại toàn cầu hoá. Còn hai vấn đề khác phải trao đổi: cheating và mối quan hệ của nó với khủng hoảng.
Vấn đề đầu thì không phải tranh luận nhiều. Cheating, tức vi phạm rule of the game để trục lợi, xét trên mọi phương diện, là một hành vi cần phải ngăn chặn trên thị trường. Chính phủ như là một agent được thị trường thuê để duy trì luật chơi cần phải phát hiện, ngăn chặn, và trừng phạt các hành vi này. Nếu mà làm không được chức năng đó ra hồn thì giải tán lập chính phủ mới ;).
Về vấn đề thứ 2, mối quan hệ của speculative action với khủng hoảng kinh tế. Ở đây cần tách ra làm hai ý: speculation có phải là nguyên nhân gây ra khủng hoảng kinh tế hay không? và ý thứ hai: khi khủng hoảng xảy ra thì speculation có làm cho tình hình tồi tệ hay không?
Về ý thứ nhất thì tôi đã trả lời trong bài trước: hành vi speculation chắc chắn không phải là nguyên nhân gây ra khủng hoảng. Nguyên nhân bắt nguồn từ sự can thiệp của nhà nước. Anh tạo ra tín hiệu tập trung và tín hiệu đó sai dần đến hành vi của nhiều người đồng thời sai và gây ra suy thoái, khủng hoảng.
Về ý thứ 2 cũng cần chia làm 2 ý. Ý thứ nhất là đứng trước một tình huống có vẻ cực xấu thì hoặc (i) tình huống đó xấu thật và (ii) do thiếu thông tin nên khi một số người tưởng là xấu nên khiến cho đa số đều nghĩ là xấu và "chạy".
Rõ ràng là ở thời điểm xảy ra một tình huống có vẻ cực xấu (như WTC ở NW bị sụp, Lehmann brothers bị phá sản v.v.) thì không thể phân biệt được là liệu tình huống đó là xấu thật hay là có vẻ xấu. Nhưng nếu là xấu thật thì các hành vi short-selling để nhanh chóng đưa thị trường về một tình trạng mới phản ánh chính xác mức độ tồi tệ đó rõ ràng là có ích thay vì để từ từ vài tháng.
Với trường hợp có vẻ xấu nhưng không hẳn thế thì rõ ràng cần rule để ngăn chặng hiện tượng này vì nó tốt cho thị trường. Về khía cạnh này các thị trường chứng khoán như Mỹ đều có qui ước ngừng giao dịch trong một thời gian khi giá cổ phiếu đồng loạt rơi mạnh (hình như lớn là 10%) để các nhà đầu tư update thông tin và tính toán lại.
Tôi nghĩ rằng nếu như thị trường liên tục rơi mạnh trong một thời gian (e.g. 50% trong 1 tuần hay gì đó) thì có thể thêm rule là dừng các hoạt động "short selling" trong thời gian, ví dụ 1 tuần, để mọi người update thông tin và tính toán lại.
Tuy nhiên, rõ ràng đây chỉ là vấn đề rule of the game chứ không phải vì hành vi "extremely" speculative là tốt hay xấu cho thị trường, dù là trong giai đoạn khủng hoảng. Nền kinh tế thị trường vận hành tốt được được là vì nó luôn đòi hỏi điều chỉnh rule để nó hoạt động hiệu quả.
nếu mọi thứ đều trông chờ vào nhà nước và sự giám sát của cơ quan chức năng thì e rằng rất khó. Vì đơn giản thế này, nhà đầu cơ là những người thực tế hoạt động trong thị trường, chịu sự tương tác thường trực của thị trường, ngoài ra, họ còn phải không ngừng động não để suy nghĩ ra những sản phẩm mới nhằm đáp ứng nhu cầu thị trường cũng như cạnh tranh và lợi nhuận... Do vậy, chắc chắn họ là những người phát hiện xu hướng vận động của thị trường đầu tiên, nhà nước và cơ quan giám sát bao giờ cũng có độ trễ để nhận ra vấn đề này. Do vậy, đổ lỗi cho nhà nước và cơ quan quản lý ko quản lý tốt để thị trường có những lỗ hổng là ok nhưng không khả thi lắm.
Trả lờiXóaMang tính rủi ro cao thiết nghĩ chỉ là đặc tính của speculation chứ dùng nó như một định nghĩa về speculation thì có lẽ không được. Cùng 1 loại hoạt động nhưng tùy case có thể rủi ro cao hoặc thấp. Em thấy người ta thường dùng speculation để chỉ những hoạt động nhằm thu được lợi nhuận từ phán đoán (speculate) về xu hướng giá. Cái nguy hiểm của hoạt động này là nó có thể làm giá rời xa mức cân bằng. Việc đầu tư 1 nhà máy mới rất rủi ro nhưng không nhằm thu lợi nhuận từ xu hướng giá nên rất kho để coi đây là 1 hoạt động speculation.
Trả lờiXóaTừ đó cho nên speculation có thể gây khủng khoảng, đặc biệt khi thị trường không hoàn hảo, do giá bị đẩy quá xa điểm cân bằng.
@ Daipv:
Xóa"Việc đầu tư 1 nhà máy mới rất rủi ro nhưng không nhằm thu lợi nhuận từ xu hướng giá nên rất kho để coi đây là 1 hoạt động speculation."
Để đầu tư xây dựng một nhà máy thì nhà đầu tư sẽ phải giả định xu hướng các loại giá nguyên vật liệu đầu vào sẽ theo xu hướng này, giá sản phẩm đầu ra sẽ theo xu hướng kia. Trên cơ sở đó thì mới tính toán NPV, IRR của dự án. Phân tích các rủi ro gắn với dự án để phòng ngừa.
Đầu tư sản xuất, hoạt động khởi nghiệp là loại hình động đầu cơ lớn nhất trong trong nền kinh tế thị trường. Chắc chắn tôi sẽ còn có dịp quay về chủ để này khi bàn đến entrepreneurship, một khái niệm trung tâm của kinh tế học trường phái Áo (và cả Schumpeter khi trẻ).
Em thì nghĩ đầu tư nhà máy không phải là 1 hoạt động đầu cơ.Giả định không gặp rủi ro về mặt kỹ thuật, nhà đầu tư có thể hedging giá sản phẩm đầu ra + nguyên vật liệu đầu vào => vẫn thu được lợi nhuận. Tính toán độ nhạy với đầu ra, đầu vào cũng là để phòng ngừa chứ không phải đầu cơ.
Xóaex textile manufacturer by Lester G.telser,1959, (a theory of speculation relating profitability and stability),the review of economics and statistics.
Em hãy hình dung ông chủ của một trong 50 ngàn doanh nghiệp Việt Nam vừa bị phá sản xem họ tính toán gì khi thành lập doanh nghiệp cách đây 5 năm - 7 năm? Họ sẽ xây dựng một kịch bản nền kinh tế VN tăng trưởng đều đều 8%, lãi suất vay khoảng 10-12% năm etc. Họ bỏ vốn đề xây dựng doanh nghiệp với những giá định đó và kỳ vọng sẽ thu được lợi nhuận sau khi trừ các chi phí đầu vào. Nếu mọi việc diễn ra đúng vậy thì họ kiếm được tiền. Rất tiếc lại không phải vậy. Anh không hiểu tại sao đó lại không phải là hoạt động có tính đầu cơ? Có ai dám đứng ra bảo hiểm cho họ rằng suy thoái kinh tế không xảy ra?
XóaThực sự thì chỉ có một số các yếu tố người chủ doanh nghiệp mới có thể hedging giá cả. Frank Knight viết rất hay trong cuốn sách kinh điển Risk, Uncertainty, and Profit (1921)là Entrepreneur là nguời cuối cùng phải gánh chịu uncertainty sau khi đã chuyển được risks sang cho người khác. (Risk là sự kiện có probablity distribution function. Uncertainty là sự kiện mà mình hoàn toàn không biết về nó).
Anh Minh nói đúng, các doanh nghiệp khi lập kế hoạch kinh doanh đều không tính toán đếu suy thoái kinh tế.
XóaRủi ro (kể cả đã biết hàm xác suất hay chưa biết) luôn tồn tại trong mọi hoạt động kinh tế. Nếu định nghĩa đầu cơ như vậy thì không có khả năng phân loại, do mọi hoạt động kinh tế đều là đầu cơ.
XóaEm ví dụ nông dân trồng lúa, họ cũng forecast giá lúa kỳ sau và phân bón trong kỳ. Vậy trồng lúa cũng là 1 hoạt động đầu cơ?.
Nếu thế đâu không phải là hoạt động đầu cơ trong nền kinh tế?.
Về khái niêm thì đầu cơ được 1 số tác giả định nghĩa là hoạt động nhằm thu lợi từ xu hướng về giá của 1 loại hàng hóa. Việc lập nhà máy lợi nhuận thu được là sự kết hợp của biện động về giá rất nhiều loại hàng hóa như nguyên vật liệu, lao động, lãi suất, sản phẩm đầu ra. Nên không xếp vào loại đầu cơ.
Dĩ nhiên có thể có các định nghĩa mang nội hàm phân loại khác về đầu cơ mà em chưa được biết.
@a Duy Linh: Không phải doanh nghiệp không tính đến suy thoái kinh tế. Mà họ dự đoán sai triển vọng kinh tế trong tương lai. Tức là đưa ra xác suất quá thấp cho việc suy giảm kinh tế.
XóaViệc lập dự án đòi hỏi phải phân tích độ nhạy với tốc độ tăng trưởng giảm xuống mức tối thiểu bao nhiêu, giả sử 5% thì dự án còn hiệu quả không. Giả dụ nếu tính ra ngưỡng chịu đựng dự án là ở tốc độ tăng trưởng 5%, trong khi nhìn nhần tốc độ tăng trưởng dưới 5% rất thấp thị họ đầu tư.
Không doanh nghiệp nào bỏ tiền ra mà không tính toán gì đâu.
Soros, nhà đầu cơ nổi tiếng, có nói rằng: Nếu nhà nước không đúng thì không có nghĩa là thị trường đúng.
Trả lờiXóaQuan điểm của Soros hoàn toàn ngược lại với quan điểm của Mises, Soros cho rằng thị trường vẫn có thể sai.
Nếu nhìn lại các bong bóng tài chính thường xuyên xuất hiện như bong bóng hoa Tulip, bong bóng dotcom, bong bóng bất động sản ở khắp các quốc gia trên thế giới hay nhìn vào cách thị trường định giá facebook có thể thấy được rằng thị trường tài chính thường xuyên phạm sai lầm.
Một trong những vấn đề lớn của thị trường đó là hiện tượng đầu cơ tài chính. Làm thế nào để biện minh cho giá của cổ phiếu FPT vào năm 2007 lên đến 600.000 đồng/cổ phiếu với PE lên tới gần 60 lần. Rõ ràng rằng thị trường hoạt động tốt trong những tình huống như thế.
http://danviet.vn/48475p1c34/do-xo-trong-tieu-bat-chap-rui-ro.htm
Trả lờiXóaTôi muốn phản biện lại quan điểm về đầu cơ của anh Đinh Tuấn Minh bằng câu chuyện về thị trường tiêu.
Theo nội dung bài báo: "Năm nay gia đình ông Trương Văn Khánh ở xã Bình Thuận, thị xã Buôn Hồ (Đăk Lăk) đã phá nửa sào cà phê, chặt hết cây chắn gió để trồng 400 trụ tiêu".
Theo quan điểm của trường phái kinh tế Áo thì các chủ thể kinh tế có thể tự do hành động dựa trên lòng tham và điều đó sẽ mang lại lợi ích cho toàn thể thị trường.
Việc nhà nước quy hoạch hay hạn chế sản lượng tiêu là điều không đúng với quan điểm của các nhà kinh tế học theo trường phái Áo.
Cũng theo quan điểm này, giá tiêu tăng cao là một tín hiệu dẫn đường đúng đắn để điều tiết nền kinh tế, bàn tay vô hình của Adam Smith sẽ mang lại sự thịnh vượng cho tất cả nông dân trồng tiêu khi theo đuổi lợi ích riêng.
Có hai vấn đề được đặt ra: (1) Giá tiêu tăng cao do đầu cơ có phải là tín hiệu dẫn đường đúng đắn không? (2) Khi tất cả mọi nông dân trồng tiêu đều tham lam đổ xô đi trồng tiêu thì sẽ mang lại lợi ích cho tất cả mọi người không?
Về vấn đề giá tiêu tăng cao: những ai theo dõi thị trường nông sản nói riêng hay thị trường tài chính nói chung đều nhận thấy hiện tượng giá tăng sẽ khuyến khích người mua với kỳ vọng giá sẽ tiếp tục tăng và giá giảm sẽ khuyến khích người bán với kỳ vọng giá sẽ còn giảm nữa. Hiện tượng đầu cơ thường xuất hiện khi giá cả tăng trong một giai đoạn dài củng cố niềm tin của tất cả mọi thành viên tham gia thị trường. Nếu tất cả thành viên tham gia thị trường tiêu đều có cùng niềm tin giá tiêu sẽ tiếp tục tăng thì niềm tin đó sẽ biến thành hiện thực khi nông dân tăng lượng dự trữ, nhà đầu cơ đổ xô mua vào.
Giá tiêu tăng cao là một tín hiệu giá cả quan trọng nhất khuyến khích người dân đổ xô trồng tiêu. Tuy nhiên, trong trường hợp này và rất nhiều trường hợp khác, giá cả tăng cao do đầu cơ là một tín hiệu dẫn đường sai lầm bởi vì nó không phản ánh cung - cầu của hàng hóa mà chỉ phản ánh niềm tin sai lầm của những người tham gia thị trường.
Khi nông dân đổ xô đi trồng tiêu thì nguồn cung tiêu trong tương lai sẽ tăng lên rất mạnh và giá tiêu sẽ sụp đổ do thực tế không đỡ nổi kỳ vọng.
(2) Khi tất cả mọi nông dân đều trở nên "tham lam" do tín hiệu giá cả dẫn dắt thì trong tương lai, tất cả mọi người trồng tiêu ở thời điểm hiện tại sẽ bị lỗ khi nguồn cung tăng cao một cách đột biến. Điều đó cho thấy khi tất cả mọi người đều trở nên tham lam thì điều đó không tốt cho tất cả mọi người.
Bắt nguồn từ việc đầu cơ giá tiêu => giá tiêu tăng cao => tín hiệu giá "ảo" => kích thích lòng tham của nông dân => đổ xô trồng tiêu => sản lượng tiêu trong vụ thu hoạch tới tăng vọt => giá tiêu sụp đổ => những người trồng tiêu hiện tại bị lỗ nặng.
Tóm lại, khi một thị trường xảy ra hiện tượng đầu cơ chỉ đơn giản là một lượng $ = tiền và tín dụng, đổ vào thị trường đó quá lớn khiến giá cả tăng cao. Chính giá tăng cao quá mức lại tạo ra một tín hiệu sai lầm dẫn đến một cuộc khủng hoảng trong tương lai.
@Duy Linh:
XóaGiá tiêu tăng cao sẽ là tín hiệu để nông dân trồng tiêu và việc này sẽ khiến cho giá tiêu giảm vào mùa vụ sau vì cung tăng. Một số nông dân có đất trồng hoặc kỹ thuật trồng kém sẽ bị thua lỗ. Số khác có thể bị lỗ hơn. Anh nghĩ đây là chuyện rất bình thường của nền kinh tế thị trường.
Anh không nghĩ "hiện tượng đầu cơ thường xuất hiện khi giá cả tăng trong một giai đoạn dài củng cố niềm tin của tất cả mọi thành viên tham gia thị trường". Giá của các thị trường này luôn biến động và điều chỉnh dựa trên các thông tin xuất hiện liên tục. Thông tin không phải là do những người tham gia các thị trường phái sinh này đưa ra mà là từ nền kinh tế thực (cung cầu thực, chính sách kinh tế của các chính phủ, các thị trường liên đới khác v.v.). Nếu giá cả tăng trong một giai đoạn dài (ví dụ DOW có trend tăng từ quí II.2009 đến nay) thì nhiều khi chỉ có nghĩa là các tin tức tích cực có trọng lượng hơn tin tiêu cực.
Thị trường xử lý thông tin hiệu quả không có nghĩa là thị trường phải phán ánh cả những thông tin chưa xuất hiện. Thị trường xử lý thông tin hiệu quả cũng không có nghĩa là mọi người có lượng thông tin như nhau và xử lý theo cùng cách thức giống nhau. Thị trường là một quá trình mà người này khám phá ra những cơ hội mà người khác chưa khám phá, là quá trình mà các cá nhân tham gia thị trường liên tục phải điều chỉnh các kế hoạch của mình khi thấy sai lầm. "Market as a discovery process" (F.A. Hayek).
Trường hợp nông dân trồng tiêu ở đây thì em thấy khó có thể cho là họ có rational expectation.
XóaAnh Minh có thể xem lại tất cả những bong bóng tài chính từ bong bóng hoa tulip ở Hà Lan đến bong bóng dotcom ở Mỹ, bong bóng chứng khoán năm 2011 ở Việt Nam.
Trả lờiXóaTất cả những hiện tượng đó đều cho thấy thị trường rất irrational khi rất nhiều người đều tham gia đầu cơ với một mục đích duy nhất chờ giá tăng.
Liệu nhà nước có nên kiểm soát các loại bong bóng tài chính đó không? Với những gì em tìm hiểu về các bong bóng tài chính thì câu trả lời là có.
Tulipmamia luôn được mang ra làm ví dụ về hành vì đầu cơ mất hết cả lý trí của con người. Thực sự thì không hẳn vậy. Nếu không có sự gia tăng cung tiền ở Amsterdam dưới nhiều hình thức thời đó thì khó có thể xảy ra hiện tượng giá tăng chóng mặt, và nếu không có sự thắt chặt cung tiền đột ngột thì giá cũng khó có thể xuống nhanh đến thế...
Trả lờiXóaEm có thể đọc bài nghiên cứu rất hay giải thích hiện tượng này dưới đây. Nếu rảnh, tóm tắt đc nội dung giúp anh thì tốt quá.
Doug French, The Truth About Tulipmania, Quarterly Journal of Austrian Economics, Vol. 9, No. 1 (spring 2006): 3–14. Link bản html tại mises.org/daily/2564