| F.A. Hayek |
(Đinh Tuấn Minh dịch)
Hoạt động kinh tế tạo ra các
phương tiện vật chất phục vụ mọi mục đích của chúng ta. Hầu hết nỗ lực riêng rẽ
của mỗi chúng ta là làm ra các phương tiện phục vụ mục đích của người khác; đổi
lại, ta sẽ nhận được các phương tiện tạo ra bởi họ để phục vụ các mục đích của mình.
Chỉ bởi vì chúng ta được tự do lựa chọn các phương tiện nên chúng ta mới được tự
do lựa chọn mục đích.
Tự do kinh tế do vậy là một điều
kiện không thể thiếu để có các tự do khác, và tự do kinh doanh vừa là điều kiện
cần vừa là hệ quả của tự do cá nhân. Do vậy, khi bàn về chủ đề “yếu tố đạo đức
trong tự do kinh doanh”, bên cạnh các vấn đề đời sống kinh tế tôi còn để cập đến
cả các mối quan hệ rộng hơn giữa tự do và đức hạnh.
Khái niệm tự do được sử dụng ở
đây là tự do theo truyền thống Anglo-Saxon, có nghĩa là sự độc lập khỏi ý chí độc
đoán của người khác. Đây là khái niệm cổ điển về tự do theo luật, một trạng
thái tại đó một người có thể bị cưỡng chế chỉ khi sự cưỡng chế được tuân thủ
theo các qui tắc pháp trị chung, bình đẳng áp dụng cho tất cả, chứ không phải bởi
quyết định tùy ý của chính quyền.
Mối quan hệ giữa tự do và các giá
trị đạo đức là tương hỗ và phức tạp. Do đó, tôi sẽ chỉ phác qua một số điểm
quan trọng nhất của mối quan hệ này.
Một mặt, theo một phát kiến đã biết từ lâu, đức
hạnh và các giá trị đạo đức chỉ thăng tiến trong một môi trường tự do, và vì thế,
các chuẩn mực đạo đức của con người và các tầng lớp xã hội nói chung chỉ cao
khi họ thực sự được hưởng tự do trong một thời gian dài – mức độ cao thấp của
chuẩn mực đạo đức tỷ lệ với mức độ tự do mà con người có được. Mặt khác, cũng theo một đúc kết từ lâu đời thì
một xã hội tự do sẽ vận hành tốt khi hành động tự do được dẫn dắt bởi những đức
tin mạnh mẽ; tức là, chúng ta sẽ vui hưởng toàn bộ lợi ích của tự do chỉ khi tự
do được tạo lập trên một nền tảng vững vàng. Ở đây, tôi muốn nói thêm rằng nếu
muốn tự do đem lại nhiều lợi ích cho con người thì không những cần phải có các
chuẩn mực đạo đức cao mà còn phải là các chuẩn mực đạo đức thuộc về một loại cụ
thể; còn nếu dựa trên các chuẩn mực đạo đức chung chung thì trong một xã hội tự
do chúng sẽ bành chướng, làm hủy hoại tự do và nền tảng của toàn bộ các giá trị
đạo đức.
Những chân lý bị lãng quên
Trước khi trở lại luận điểm tương
đối khó nắm bắt trên, tôi muốn đề cập ngắn gọn hai chân lý kinh điển dù rất
quen thuộc nhưng lại bị lãng quên. Trước hết, tự do là chất nền không thể thiếu
để nuôi dưỡng các giá trị đạo đức phát triển, tức tự do không đơn thuần là một
giá trị mà là cái nôi của mọi giá trị. Đây
là một chân lý gần như hiển nhiên. Chỉ ở nơi cá nhân được tự do lựa chọn và chịu
trách nhiệm với lựa chọn của mình thì anh ta mới có điều kiện để khẳng định các
giá trị hiện có, để đóng góp và thúc đẩy sự phát triển của các giá trị trong tương lai,
và để nâng cao phẩm chất đạo đức. Sự tuân lệnh chỉ có giá trị đạo đức khi có hiện
diện của tự do lựa chọn; và nó sẽ chẳng có giá trị đạo đức gì nếu là do bị cưỡng
bức. Cảm nhận đạo đức của chúng ta được hình thành chính xác từ việc sắp đặt thứ bậc cho các mục đích khác nhau của
chúng ta. Mỗi khi áp dụng các qui tắc đạo đức tổng quát cho các tình huống cụ
thể mỗi cá nhân luôn phải tỉnh thức để diễn giải các nguyên tắc chung đó. Và mỗi
lần làm như vậy, anh ta đã tạo ra những giá trị cụ thể.
Có một thực tế mà tôi không có thời
gian thảo luận kỹ. Đó là việc các xã hội tự do không chỉ về cơ bản là một xã hội
tuân thủ luật pháp; trong thời đại ngày nay, chúng cũng là cái nôi của tất cả
các phong trào nhân bản rộng khắp hướng đến việc chủ động hỗ trợ những người
nghèo khổ, ốm yếu, và thân cô thế cô. Những xã hội phi tự do thì ngược lại.
Chúng thường sản sinh ra thái độ bất tuân luật pháp, thái độ vô cảm trước khổ
đau của thiên hạ, và thậm chí đồng lõa với hành vi bạo ngược.
Giờ tôi phải chuyển sang mặt kia
của tấm huy chương. Hiển nhiên là các thành quả mà tự do đem lại còn phụ thuộc
vào các giá trị mà các cá nhân tự do theo đuổi.
Ta không thể khăng khăng tuyên bố được rằng một xã hội tự do sẽ luôn
luôn và tất yếu thúc đẩy sự phát triển các giá trị mà chúng ta ưng thuận. Thậm
chí, như chúng ta sẽ thấy, chúng ta cũng không thể dám chắc được rằng xã hội tự
do sẽ nuôi dưỡng các giá trị tương thích với việc gìn giữ tự do. Tất cả những
điều chúng ta có thể tuyên bố là: các giá trị mà chúng ta có là sản phẩm của tự
do; cụ thể hơn, các giá trị Kito giáo đã tự khẳng định mình qua những con người
đã chống chọi thành công sự cưỡng bức của chính phủ; và mong ước theo đuổi những
đức tin của mỗi người mới chính là công cụ tân tiến bảo vệ cho tự do cá nhân của
chúng ta. Có lẽ chúng ta nên bổ sung thêm một ý nữa. Đó là chỉ các xã hội mà nuôi
dưỡng các giá trị đạo đức về cơ bản tương tự như của chính chúng ta thì mới tiếp
tục tồn tại như là những xã hội tự do, còn ở những xã hội khác thì tự do bị tàn
lụi.
Đây là những lý lẽ có trọng lượng
giải thích tại sao điều quan trọng nhất đối với một xã hội tự do là nó phải dựa
trên những đức tin vững chắc và tại sao để gìn giữ tự do và đức hạnh thì chúng ta phải nỗ lực hết mình để lan tỏa các đức
tin phù hợp. Nhưng điều tôi lo lắng nhất là quan niệm sai lầm rằng con người
trước tiên phải sống có đức hạnh trước khi họ có thể được hưởng quyền tự do.
Đúng là một xã hội tự do nhưng thiếu
một nền tảng đạo đức vững chãi sẽ là một xã hội khiến chúng ta cảm thấy không
thỏa mái khi sống ở đó. Nhưng đấy vẫn là xã hội tốt đẹp hơn một xã hội mà không
có tự do và phi đạo đức; và chí ít nó vẫn cho chúng ta hy vọng về sự xuất hiện
từ từ của các đức tin mà một xã hội phi tự do sẽ ngăn cản. Về điểm này, tôi rất
không đồng ý với John Stuart Mills khi ông cho rằng với những ai chưa có năng lực
tự hoàn thiện bản thân bằng đức tin và tín ngưỡng thì “chẳng có gì cho họ ngoài
việc mặc nhiên phải phục tùng một Akbar hay Charlemagne (một vị minh quân – ND),
nếu may mắn họ tìm thấy một người”. Về điểm này thì tôi tin T.B. Macaulay đã
thông thái hơn hẳn lối suy nghĩ truyền thống trước đó khi ông viết “nhiều chính
trị gia trong thời đại chúng ta có thói quen coi một mệnh như sau là hiển
nhiên: không ai được quyền tự do cho tới khi họ xứng đáng được sử dụng tự do của
mình. Câu cách ngôn có giá trị chỉ với kẻ ngốc trong câu chuyện cổ, rằng kẻ kiên
định (resolved) sẽ không nhảy xuống nước cho tới chừng nào anh ta biết bơi. Nếu
con người chờ đợi hưởng tự do cho tới khi họ trở nên thông minh và đức hạnh, họ
sẽ đợi cho đến hết đời”.
Lựa chọn cơ sở đạo đức
Giờ là lúc tôi chuyển sang các vấn
đề gây tranh cãi hơn sau khi thuần túy nhắc lại những lời hay ý đẹp của cha
ông. Tôi đã nói rằng tự do, để phát huy tác dụng, đòi hỏi không chỉ sự tồn tại
của đức tin vững chãi mà cả sự chấp nhận các quan điểm đạo đức cụ thể. Nhưng
khi nói thế tôi không hàm ý rằng trong
một chừng mực nhất định chúng ta có thể cân nhắc các nguyên lý vị công lợi để tác
động làm thay đổi các quan điểm đạo đức về các vấn đề cụ thể. Tôi cũng không có
ý cho rằng, như Edwin Cannan phát biểu, “trong hai nguyên lý Bình đẳng và Kinh
tế, Bình đẳng rốt cục luôn là nguyên lý yếu thế hơn… Phán xét của loài người về
cái gì là bình đẳng luôn có xu hướng thay đổi, và… nguyên nhân chính của sự
thay đổi này là con người liên tục phát hiện ra rằng cái điều từng được coi là
thực sự công bằng và bình đẳng trong một vấn đề cụ thể nào đó là, hoặc có lẽ
luôn luôn thế, thứ phi kinh tế.”
Phát biểu trên của tôi cũng mang
một chân giá trị và có ý nghĩa quan trọng, mặc dù không phải tất cả mọi người đều
đồng tình. Thực ra, tôi quan tâm đến những quan niệm tổng quát hơn, những thứ
mà tôi coi là điều kiện không thể thiếu của một xã hội tự do và nếu thiếu thì
nó không thể tiếp tục tồn tại được. Với tôi có hai nguyên lý tổng quát như vậy.
Đó là niềm tin vào trách nhiệm cá nhân và chấp nhận thể chế công bằng sau: thể
chế cho phép cá nhân hưởng phần thưởng vật chất tương ứng với giá trị của các dịch
vụ cụ thể mà anh ta cấp cho đồng loại của mình chứ không phải tương ứng với mức độ kính trọng mà anh ta nhận được từ
phẩm chất đạo đức của mình.
Trách nhiệm cá nhân
Tôi buộc phải đi lướt nguyên lý đầu
tiên, dù rất không muốn. Quá trình phát triển hiện đại là một phần của câu chuyện
giá trị đạo đức bị phá hủy bởi lỗi lầm khoa học. Đây là vấn đề tôi thực sự quan
tâm trong thời gian gần đây. Và với một học giả quan tâm đến thời cuộc thì đây
là một chủ đề quan trọng nhất trên thế giới. Nhưng tôi chỉ nói ngắn gọn một vài
dòng về chủ đề này.
Những xã hội tự do luôn là những
xã hội tại đó niềm tin vào trách nhiệm cá nhân được giữ vững. Chúng cho phép
các cá nhân hành động dựa trên hiểu biết và niềm tin của chính họ và thừa nhận các thành quả đạt được từ các hành động của họ.
Mục đích là khiến mọi ngưởi thấy hữu ích khi hành động một cách duy lý và thuyết
phục họ rằng cái mà họ đạt được chủ yếu phụ thuộc vào chính họ. Rõ ràng là niềm
tin cuối này không phải hoàn toàn đúng, nhưng thực sự nó đã thúc đẩy mạnh mẽ tính
chủ động sáng tạo và cả khả năng phát hiện cơ hội.
Với việc con người ngày càng hiểu
biết về các loại nguyên nhân ảnh hưởng đến các hiện tượng nói chung và hành động
con người nói riêng, người ta bắt đầu nghĩ rằng niềm tin vào trách nhiệm cá
nhân này đã trở nên lỗi thời. Đây là một nhìn nhận sai và cần được minh định.
Có thể đúng là chúng ta ngày càng hiểu biết hơn về các loại hoàn cảnh ảnh hưởng tới hành vi con người – nhưng chỉ đến vậy
mà thôi. Hiển nhiên chúng ta không thể nói rằng một hành động có chủ đích cụ thể
của bất kỳ một người nào là kết quả tất yếu của các hoàn cảnh cụ thể mà chúng
ta có thể xác định – tức bỏ qua cá tính tích lũy từ thủa ấu thơ của anh ta. Dựa
trên kiến thức tổng hợp về những yếu tố ảnh hưởng đến hành động con người chúng
ta đưa ra lời ngợi ca và trách móc; chúng ta làm thế để khiến mọi người hành động
theo chiều hướng mong muốn. Chính dựa trên quyết định luận hạn chế (limited
determinism) – ở mức nhiều nhất mà kiến thức của chúng ta có thể biện minh trên
thực tế – mà niềm tin về trách nhiệm cá nhân được hình thành. Còn nếu chỉ căn cứ
vào tư biện siêu hình tách khỏi chuỗi phân tích nhân quả thì người ta mới có thể
biện minh cho nhận định bác bỏ đòi hỏi cá nhân phải chịu trách nhiệm cho các
hành động của mình.
Áp lực của dư luận
Áp lực của dự luận khiến mọi người
để ý đến các luật chơi. Đây là phương tiện chính yếu giúp duy trì hành vi ứng xử
đúng đắn trong xã hội. Dù thế, nó đã bị những nguỵ biện thô thiển mang màu sắc
khoa học phản đối và đánh phá. Và thái độ thù địch này đã bị đặt dầu chấm hết như
là một Huyền thoại về chứng bệnh tinh thần
(Myth of Mental Illness) do nhà phân tâm học nổi tiếng, bác sĩ T.S. Szasz, viết
một cách trau chuốt trong cuốn sách cùng tên. Có lẽ chúng ta đã không tìm ra được
cách thức tốt nhất để dạy mọi người sống theo luật lệ, thứ vốn giúp cuộc sống của
họ và bè bạn trở nên đỡ khắc nghiệt hơn. Nhưng với trình độ nhận thức như của
chúng ta hiện nay tôi tin rằng chúng ta sẽ không thể xây dựng thành công được một
xã hội tự do nếu thiếu đi áp lực cổ vũ và chê bai, khiến các cá nhân phải chịu
trách nhiệm cho hành vi ứng xử của mình và cũng khiến anh ta phải gánh chịu các
hậu quả, thậm chí cả của sai lầm do vô tình.
Trong một xã hội tự do, sự kính
trọng mà một cá nhân nhận được từ cộng đồng phụ thuộc vào mức độ tuân thủ qui tắc
đạo đức của anh ta. Bên cạnh nguyên lý đó, còn có một nguyên lý tối quan trọng khác
đối với một xã hội tự do là cần tách biệt phần thưởng vật chất khỏi các ý kiến của cộng đồng về phẩm chất
đạo đức của anh ta. Phần thưởng vật chất phải dựa trên giá trị mà cộng đồng trả
cho các dịch vụ cụ thể mà anh ta cung cấp. Điều này đưa tôi đến điểm quan trọng
thứ hai: quan niệm về công bằng xã hội mà phải phổ biến để duy trì một xã hội tự
do. Đây là điểm mà những người bảo vệ một xã hội tự do và những người cổ vũ cho
một hệ thống dựa trên chủ nghĩa tập thể chia rẽ nhất. Và về điểm này, trong khi
những người cổ vũ cho khái niệm xã hội chủ nghĩa về công bằng phân phối thường
nói toạc luôn quan điểm của mình thì những người giữ quan điểm tự do lại thường
ngần ngại bày tỏ thẳng thắn nội dung lý tưởng của họ.
Tại sao tự do?
Lý do rất đơn giản là: chúng ta
muốn cá nhân tự do bởi vì chỉ nếu anh ta quyết định cái gì phải làm thì anh ta
mới có thể sử dụng tổng hợp tất cả thông tin, kỹ năng, và năng lực mà không ai
có thể thực sự biết. Để tạo điều kiện cho cá nhân phát huy hết khả năng của
mình chúng ta cũng phải cho phép anh ta hành động dựa trên các tính toán của
chính mình về vô số cơ hội và khả năng. Do chúng ta không biết anh ta thực sự
biết gì, chúng ta không thể minh định các quyết định của anh ta; chúng ta cũng
không thể biết liệu sự thành công hay thất bại của anh ta là do nỗ lực và khả
năng tiên đoán của anh ta hay do yếu tố may mắn. Nói cách khác, chúng ta phải
nhìn vào các kết quả, chứ không phải vào ý định hoặc động cơ, và để cho phép
anh ta hành động dựa trên hiểu biết của mình thì chúng ta cũng phải cho phép
anh ta được hưởng cái mà cộng đồng sẵn sàng trả cho anh ta các dịch vụ mà anh
ta cung ứng, bất kể liệu chúng ta nghĩ phần thưởng đó là tương ứng với phẩm chất
đạo đức của anh ta hoặc sự kính trọng mà chúng ta dành cho anh ta.
Khoản thù lao trả tương ứng theo
giá trị của các dịch vụ ai đó cung cấp dứt khoát khác hẳn cái chúng ta đánh giá
về phẩm chất đạo đức của anh ta. Tôi tin rằng đây là căn nguyên chính khiến người
ta bất mãn với hệ thống kinh tế tự do và quay sang ủng hộ cho “công bằng phân
phối”. Sự khác biệt giữa một bên là phần thưởng đạo đức và sự kính trọng mà một
người có được từ các hành động của mình và bên kia là giá trị các dịch vụ mà
chúng ta trả cho anh ta là điều thật khó bác bỏ. Chúng ta tự đặt mình vào một vị
trí hoàn toàn sai nếu chúng ta cố gắng bưng bít hoặc che dấu thực tế này.
Phần thưởng vật chất
Với tôi thì một trong những phẩm tính tuyệt vời
nhất của xã hội tự do là việc phần thưởng vật chất không phụ thuộc vào ý thích cá nhân hay sự kính trọng mà đa số người
trong cộn đồng giành cho chúng ta. Điều này có nghĩa là, chừng nào chúng ta còn
chưa đi quá các qui tắc được xã hội chấp nhận thì áp lực đạo đức đến với chúng
ta chỉ từ sự kính trọng của những người mà bản thân chúng ta quí trọng, chứ
không phải từ phần thưởng vật chất do một cơ quan xã hội phân bổ. Điều cốt yếu
của một xã hội tự do chính là chúng ta phải được bù đắp về mặt vật chất cho việc
cung cấp những cái mà những người khác muốn chứ không phải cho việc thực hiện những
thứ mà họ ra lệnh cho chúng ta. Tất nhiên chúng ta nên hành xử với thái độ tôn
trọng họ. Nhưng chúng ta tự do bởi vì các nỗ lực hàng ngày của chúng ta có
thành công hay không không phụ thuộc vào việc những người cụ thể có thích chúng
ta, hoặc các nguyên lý của chúng ta, hoặc tôn giáo của chúng ta, hoặc phong tục
của chúng ta hay không; và chúng ta tự do bởi vì chúng ta có thể quyết định liệu mức bù đắp vật chất mà những người
khác phải trả cho các dịch vụ của chúng ta có thực sự thỏa đáng khiến chúng ta
phải cung cấp chúng.
Hiếm khi chúng ta biết liệu một ý
tưởng tuyệt vời đem lại lợi ích to lớn cho đồng loại mà một người bất chợt nhận
ra là kết quả của nhiều năm nỗ lực và đầu tư tiền của, hay liệu đó là một cảm hứng
bất chợt có được từ sự kết hợp ngẫu nhiên từ tri thức và hoàn cảnh. Nhưng chúng
ta biết rằng, nếu là trường hợp đầu thì không đáng để gánh chịu rủi ro nếu người
khám phá không được phép hưởng lợi. Và vì chúng ta không biết cách phân biệt
trường hợp này với trường hợp kia nên chúng ta cũng phải cho phép một người được
hưởng thành quả ngay cả khi anh ta gặp may.
Phẩm chất đạo đức của một người
Tôi không muốn phủ nhận, mà thực
ra tôi muốn nhận mạnh, rằng trong xã hội của chúng ta, được kính trọng về nhân
cách và thành công vật chất có mối quan hệ rất chặt chẽ với nhau. Nhưng chúng
ta phải ý thức được rằng việc chúng ta thừa nhận ai đó xứng đáng được hưởng phần
thưởng vật chất cao không đồng nghĩa với việc tôn kính anh ta. Và, dù chúng ta
thường nhầm lẫn về điểm này thì không có nghĩa rằng sự nhầm lẫn giữa phần thưởng
vật chất và sự tôn kính giành cho ai đó ta là kết quả tất yếu của hệ thống tự
do kinh doanh – hoặc không có nghĩa là nói chung hệ thống tự do kinh doanh là
duy vật chất hơn các hệ thống xã hội khác. Thực ra đối với tôi thì, xét trên nhiều
khía cạnh, hệ thống tự do kinh doanh lại kém duy vật chất hơn.
Trên thực tế, tự do kinh doanh đã
thúc đẩy phát triển chỉ một kiểu xã hội mà cho phép cá nhân tự do lựa chọn giữa
phần thưởng vật chất và phi vật chất trong khi vẫn chu cấp cho chúng ta lượng phương
tiện vật chất gấp bội, nếu đấy là cái chúng ta mong muốn nhất. Sự nhầm lẫn mà
tôi nói tới – giữa giá trị mà các dịch vụ của một người cấp cho đồng loại và sự
kính trọng mà anh ta có được từ phẩm chất đạo đức của mình – hoàn toàn có thể làm cho một xã hội tự
do kinh doanh trở thành duy vật chất. Nhưng để ngăn chặn xu hướng này thì chúng
ta tất nhiên không cần đến phương thức đòi hỏi phải có sự kiểm soát tất cả các
phương tiện vật chất bởi một cơ quan chỉ huy duy nhất, không cần phương thức khiến
việc phân phối hàng hóa vật chất trở thành mối ưu tư chính của cộng đồng và khiến
chính trị và kinh tế lẫn lộn với nhau không cách nào gỡ ra được.
Nhiều cơ sở để phán xét
Chí ít là một xã hội tự do kinh
doanh dễ trở thành một xã hội đa nguyên không dựa trên một hệ thống thứ bậc duy
nhất nào. Đó là nơi dựa trên nhiều nguyên lý khác nhau để hình thành sự tôn
kính; nơi mà sự thành công trên phạm vi toàn cầu không phải là một bằng chứng duy
nhất hoặc được coi như là một bằng chứng mặc nhiên của phẩm giá cá nhân. Đúng
là có hiện tượng vào các thời kỳ có sự tăng trưởng nhanh về của cải, khiến nhiều
người lần đầu tiên được hưởng lợi từ sự thịnh vượng, người ta thường có xu hướng
quan tâm nhiều hơn đối với tiến bộ vật chất. Trước khi Châu Âu trỗi dậy, nhiều
thành viên thuộc các tầng lớp phong lưu ở đó đã dè bỉu những giai đoạn kinh tế
tương đối thịnh vượng là quá duy vật chất dù rằng đó là những thời kỳ họ có được
tiện nghi vật chất giúp họ dễ dàng hướng cuộc sống của mình vào những mục tiêu
khác.
Tiến bộ văn hóa theo sau
Những thời kỳ văn hóa phát triển
rực rỡ và sáng tạo thường xuất hiện sau, thay vì đồng thời, với những thời kỳ
gia tăng nhanh về của cải vật chất. Theo tôi thì điều này không phải là một chỉ
dấu rằng một xã hội tự do phải bị chi phối bởi các ưu tư vật chất. Đó là chỉ dấu
cho thấy nhờ có tự do nên chính bầu không khí đạo đức cởi mở, chính các giá trị
mà mọi người nắm giữ, sẽ tạo ra định hướng chủ đạo cho các hành động của họ.
Các cá nhân cũng như cộng đồng, khi họ cảm thấy rằng những thứ khác trở nên
quan trọng hơn lợi ích vật chất, có thể chuyển sang những hướng phát triển đó.
Tất nhiên, điều khiến chúng ta có thể tự bảo vệ mình khỏi trở nên quá duy vật
chất không phải đến từ nỗ lực làm cho phần thưởng vật chất tương ứng với phẩm chất
đạo đức, mà là nhờ việc chúng ta tự nhận ra rằng có những mục tiêu khác trọng
hơn thành công vật chất.
Nếu ai đó đổi lỗi cho một hệ thống
xã hội là quá duy vật chất bởi vì nó để cho cá nhân quyết định liệu anh ta
thích lợi ích vật chất hay là những thứ cao cả khác thay vì xác định trước cho
anh ta, thì chắc hẳn đó là một lời qui kết thiếu cân nhắc. Thực ra việc trở
thành người duy tâm sẽ chẳng nâng thêm nhiều phẩm giá nếu như để theo đuổi những
mục tiêu duy tâm đòi hỏi phải có những phương tiện vật chất mà phải được cung
phụng bởi những người khác. Chỉ khi một người có thể tự lựa chọn hy sinh vật chất
để đạt mục tiêu phi vật chất thì anh ta mới xứng đáng được kính trọng. Đòi hỏi
hạn chế sự lựa chọn và hạn chế yêu cầu phải hy sinh cá nhân thực sự không phải
là con đường duy tâm.
Tôi phải nói rằng, dưới mọi góc độ,
bầu không khí của Nhà nước phúc lợi tiên tiến có hơi hướng duy vật chất hơn rất
nhiều so với bầu không khí của xã hội tự do kinh doanh. Nếu xã hội tự do kinh
doanh tạo cho cá nhân khoảng không gian rộng lớn hơn để phục vụ đồng loại của
mình bằng cách theo đuổi các mục đích thuần túy duy vật chất thì nó cũng cho họ
cơ hội để theo đuổi bất kỳ mục đích nào mà họ coi là quan trọng hơn. Tuy nhiên,
bạn cần phải lưu ý rằng duy tâm hóa thuần túy một mục tiêu nào đó là điều đáng
ngờ bất cứ khi nào phương tiện vật chất cần thiết để hoàn thành mục tiêu đó phải
được tạo ra bởi người khác.
Phương tiện và mục đích
Để kết luận, tôi muốn quay lại điểm
xuất phát ban đầu. Khi chúng ta bảo vệ hệ thống tự do kinh doanh chúng ta phải
luôn nhớ rằng nó chỉ giải quyết vấn đề phương tiện. Chúng ta làm gì với tự do của
chúng ta là việc của chúng ta. Chúng ta không nên nhầm lẫn giữa hiệu năng của
phương tiện với các mục đích mà chúng đáp ứng. Một xã hội mà không có tiêu chuẩn
khác ngoài tiêu chí hiệu năng thì thực ra sẽ làm phí phạm hiệu năng đó. Nếu con
người được tự do sử dụng các kỹ năng của mình để cung cấp cho chúng ta các
phương tiện chúng ta muốn, chúng ta phải bù đắp cho họ tương ứng với giá trị mà
những phương tiện này giúp chúng ta. Tuy nhiên, chúng ta chỉ kính trọng họ ở mức
tương ứng với độ hữu dụng mà họ làm ra các phương tiện từ chính cái họ có.
Chúng ta khuyến khích mọi người
làm điều tốt cho người khác bằng mọi phương tiện, nhưng đừng có nhầm lẫn điều
này với tầm quan trọng của các mục đích mà con người thực sự hướng đến. Đó
chính là sự kỳ vĩ của hệ thống kinh doanh tự do khiến cho mỗi cá nhân trong khi
phục vụ đồng loại của mình vẫn có thể theo đuổi được các mục đích của mình. Nhưng
bản thân hệ thống chỉ là phương tiện, và những khả năng vô hạn của nó phải được
sử dụng để phục vụ cho những mục đích tách rời.
(Nguồn: F.A. Hayek, “The
Moral Element in Free Enterprise”, Freeman,
Tháng 7-1962.)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét