Phạm Thế Anh và Đinh Tuấn Minh
(Saigontimes đăng bài này nhưng quên ghi tên đồng tác giả Đinh Tuấn Minh)
Chính
sách trọng cung và kinh nghiệm thực tiễn
Chính sách trọng cung là một tập hợp
các biện pháp nhằm khuyến khích hành vi và nâng cao năng lực sản xuất của nền
kinh tế thông qua việc làm tăng cung các yếu tố đầu vào, nâng cao hiệu quả hoạt
động của các thị trường và ngành, cải thiện tổng cung tiềm năng của nền kinh tế,
và do vậy có thể dẫn đến tốc độ tăng trưởng cao hơn của thu nhập quốc dân trong
tương lai. Thực tiễn cho thấy, để thoát khỏi tình trạng đình đốn sản xuất và lạm
phát cao trước đó, bắt đầu từ thập niên 1980s, các quốc gia trên thế giới như
Anh, Pháp, Mỹ, Hàn Quốc, Xing-ga-po, v.v. đã chuyển mạnh sang chính sách trọng
cung, tức tạo ra các khuyến khích để phát triển các yếu tố sản xuất. Một loạt
các chính sách như giảm các loại thuế phí, dỡ bỏ các rào cản thương mại, dỡ bỏ
các chính sách điều tiết ngành, và tư nhân hoá các DNNN lần lượt được thực hiện.
Các chính sách trợ cấp thất nghiệp và trợ cấp xã hội cũng được thu hẹp, đồng thời
nhiều điều lệ ngăn cản sa thải nhân công cũng được dỡ bỏ. Điều này đã giúp tạo
ra những khuyến khích khiến cho người lao động phải tích cực tìm kiếm việc làm
thay vì ỉ lại vào chính phủ. Nhiều chính sách ưu đãi thuế cho các cá nhân và
doanh nghiệp đầu tư vào khoa học công nghệ, giáo dục đại học và đào tạo nghề
cũng được các chính phủ đưa ra để nâng cao năng suất của nền kinh tế. Những
chính sách trọng cung này đã tạo đà phát triển liên tục và ở mức cao cho các nền
kinh tế theo đuổi chúng, cả phát triển và
đang phát triển, trong suốt giai đoạn từ giữa thập niên 1980s cho đến
khi đại suy giảm kinh tế thế giới 2008–2009 vừa qua. Đó là quãng thời gian tăng
trưởng liên tục dài nhất trong lịch sử kinh tế thế giới.
Cuộc đại suy giảm kinh tế thế giới
2008–2009 khiến nhiều quốc gia quay trở lại chính sách kích cầu. Tuy nhiên, đây
chỉ là những chính sách ngắn hạn. Những nền tảng chính sách trọng cung được thiết
lập trong các thời kỳ trước như giảm thuế, tự do thương mại, dỡ bỏ các rào cản
nhập ngành v.v. hầu như vẫn được các quốc gia duy trì.
Các khuyến nghị chính sách trọng cung
cho Việt Nam
Tương tự như Trung Quốc sau khi thực
hiện chính sách “mở cửa,” có thể nói một cách khái quát rằng, những thành tựu
kinh tế mà Việt Nam đạt được thông qua công cuộc “đổi mới” kể từ cuối thập niên
1980s là chủ yếu nhờ những chính sách dựa trên nền tảng lý thuyết trọng cung chứ
không phải quản lý tổng cầu. Có thể kể đến những chính sách mang tinh thần trọng
cung được thực hiện trong giai đoạn 1988–1991 bao gồm: dỡ bỏ các hàng rào nội
thương, cho phép thành lập công ty tư nhân, khoán 10 giao ruộng đất từ các hợp
tác xã về cho các hộ nông dân, giải thể và sáp nhập các DNNN yếu kém, giải ngũ
và cắt giảm biên chế, mở cửa thu hút đầu tư nước ngoài. Tương tự, nhiều cải
cách lớn trong giai đoạn 1999–2006 cũng mang tinh thần trọng cung như cho phép
các doanh nghiệp được quyền trực tiếp xuất nhập khẩu, ban hành Luật Doanh nghiệp
năm 2000 để dỡ bỏ các rào cản thành lập doanh nghiệp, đẩy mạnh tiến trình cổ phần
hoá DNNN, ký hiệp định thương mại song phương với Mỹ, hình thành sở giao dịch
chứng khoán và cải cách lại một loạt các bộ luật về thương mại, đầu tư, đất
đai, v.v. để gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO).
Tiếc rằng từ năm 2007 tới nay, Việt Nam lại
bị sa lầy vào chính sách quản lý tổng cầu để loay hoay hết kiềm chế lạm phát lại
sang kích thích tăng trưởng, mà không ý thức được rằng các chính sách này chỉ
có tính ngắn hạn và nhất thời. Việc sử dụng chúng liên tục như là một chính
sách dài hạn là nguyên nhân chính khiến cho nền kinh tế bất ổn liên tục trong
những năm vừa qua. Trong khi đó, dư địa cho các chính sách trọng cung để nâng
cao sản lượng tiềm năng của Việt Nam còn rất lớn nhưng lại không được
quan tâm khai thác đúng mức. Cụ thể, các chính sách trọng cung chúng tôi khuyến
nghị ở đây bao gồm:
Nội dung quan trọng nhất trong gói
chính sách trọng cung là cắt giảm các mức thuế và đồng thời cắt giảm chi tiêu
chính phủ. Mục đích của chính sách giảm tỷ lệ thuế và phí là để tạo ra sự khuyến
khích giúp doanh nghiệp tăng chi tiêu đầu tư, giúp hình thành lượng vốn/tư bản
và năng lực sản xuất nền kinh tế trong tương lai. Thực tiễn cho thấy, trong
giai đoạn đầu của quá trình phát triển khi lượng vốn sản xuất/tư bản trong nền
kinh tế còn thấp, để thu hút đầu tư các quốc gia trên thế giới thường áp dụng một
mức thuế thu nhập doanh nghiệp thấp (dưới 15%). Trong giai đoạn sau, khi nền kinh
tế đã phát triển, mức thuế này thường được nâng cao (>30%) kèm theo những cải
thiện về cơ sở hạ tầng và dịch vụ xã hội. Cụ thể, Thái Lan sau khủng hoảng tài
chính châu Á 1997 và Ai Len những năm gần đây là các quốc gia điển hình áp dụng
thuế thu nhập doanh nghiệp ở mức thấp và đã thu hút được một lượng vốn đầu tư
khổng lồ từ nước ngoài cũng như từ khu vực tư nhân trong nước, nhanh chóng hồi
phục và duy trì được tốc độ tăng trưởng cao trong một thời gian dài.
Tuy nhiên, việc giảm tỷ lệ thuế và phí
cần đi song hành với cắt giảm chi tiêu chính phủ. Nếu không cắt giảm chi tiêu
chính phủ ngân sách sẽ bị thâm hụt, nợ công sẽ tăng cao, không những làm tăng mặt
bằng lãi suất mà còn đe dọa khả năng duy trì mức thuế và phí thấp trong dài hạn.
Trong gần hai thập kỉ qua nhiều DNNN
đã được cổ phần hoá, tuy nhiên quá trình này được đánh giá là còn chậm và chưa
triệt để. Hầu hết các doanh nghiệp sau cổ phần hoá vẫn là nhà nước chiếm tỷ lệ
sở hữu chi phối, được hưởng nhiều ưu đãi và giữ thế độc quyền trong nhiều lĩnh
vực. Để tạo môi trường cạnh tranh và nâng
cao hiệu quả của nền kinh tế, Chính phủ nên xây dựng một lộ trình kiên
quyết nhằm thu hẹp khu vực DNNN thông qua
bán toàn bộ hoặc cổ phần hóa triệt để các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh ngoài lĩnh vực công ích. Nhà nước chỉ
nên sử dụng các DNNN với vai trò là công cụ khắc phục những thất bại của
thị trường, tránh sử dụng chúng như những công cụ để điều tiết nền kinh tế.
Các chính sách giải điều tiết
(deregulation) gỡ bỏ các kiểm soát, thúc đẩy cạnh tranh và tự do thương mại có
thể làm tăng cung thị trường, giảm giá cả và mở rộng sự lựa chọn cho người tiêu
dùng. Giải điều tiết giúp tăng số lượng doanh nghiệp tham gia cung ứng hàng hóa
và dịch vụ trong cùng một lĩnh vực. Bên cạnh đó, Chính phủ có thể tiến hành các
chính sách hỗ trợ cạnh tranh như các ban hành các quy định về chống độc quyền
áp đặt giá, chống lạm dụng vị thế chi phối thị trường của các tập đoàn lớn, hoặc
thúc đẩy quá trình cổ phần hoá các tập đoàn, tổng công ty nhà nước.
Ngoài ra, thuế quan cần được tiếp tục
cắt giảm hơn nữa nhằm thúc đẩy tự do thương mại. Kể từ khi chính thức gia nhập
WTO vào năm 2007, Việt Nam đã và đang thực hiện theo lộ trình cam kết cắt giảm
thuế quan ở khoảng 3.800 dòng thuế khác nhau, chiếm khoảng 35,5% số dòng của biểu
thuế. Tuy nhiên, mức độ cắt giảm ở mỗi dòng thuế được đánh giá vẫn còn khiêm tốn,
phổ biến ở mức từ 1–3%, do những lo ngại về khả năng cạnh tranh kém và chưa sẵn
sàng của các doanh nghiệp trong nước. Ngoài ra, vẫn còn tới khoảng 6.870 dòng,
chiếm 64,5% số dòng của biểu thuế được ràng buộc ở mức thuế trần hoặc không được
cắt giảm so với thời điểm trước khi gia nhập WTO. Số lượng mức thuế suất cũng mới
được giảm từ 48 xuống còn 33 mức, vẫn cao hơn nhiều so với từ 3–5 mức như đang
áp dụng ở các nước trong khu vực.
Tăng trưởng kinh tế trong dài hạn của
Việt Nam
không thể không dựa trên nền tảng lao động chất lượng cao với khả năng sáng tạo
và ứng dụng công nghệ mới. Đối với hệ thống giáo dục và đào tạo, thay vì mở rộng
quy mô như hiện nay, Việt Nam cần chú trọng xây dựng và hỗ trợ phát triển các
trường đại học/chương trình đào tạo trọng điểm chất lượng cao, tách biệt với
các trường/chương trình đào tạo vì mục tiêu tài chính hay vì mục tiêu phổ cập.
Các trường đại học/chương trình đào tạo trọng điểm này cần cạnh tranh với nhau
để nhận sự hỗ trợ tài chính của nhà nước nhằm thu hút được các giảng viên và
sinh viên ưu tú, làm nòng cốt cho sự phát triển khoa học kĩ thuật và thúc đẩy
tăng trưởng của kinh tế trong tương lai. Đối với hệ thống khoa học và công nghệ,
Việt Nam cần xây dựng lại chuẩn mực khoa học trong hệ thống nghiên cứu; cần sửa
lại các biện pháp miễn giảm thuế cho đầu tư phát triển công nghệ theo hướng dễ
nhận biết hơn; cần xây dựng cơ chế phân bổ ngân sách nhà nước cho phát triển
khoa học và công nghệ theo hướng cạnh tranh và bình đẳng với tất cả các cơ sở
nghiên cứu, của nhà nước cũng như tư nhân; và cần có những chính sách để liên kết
hợp tác giữa các cơ sở nghiên cứu khoa học tại các trường đại học, các viện
nghiên cứu trọng điểm với khu vực doanh nghiệp.
Khuyến nghị 5: Cải thiện môi trường kinh doanh để thu hút đầu tư nước ngoài
Một trong những nguyên nhân chính khiến
môi trường kinh doanh của Việt Nam ngày càng xấu đi là do tham nhũng. Trong nhiều
năm qua, Việt Nam
luôn được Tổ chức Minh bạch Quốc tế xếp hạng vào một trong các quốc gia có tình
trạng tham nhũng nghiêm trọng nhất (Xếp thứ hạng 123/174 vào năm 2012). Không
chỉ trong lĩnh vực kinh tế, tham nhũng ở Việt Nam còn lan sang các lĩnh vực vốn
được coi trọng về đạo lý như giáo dục, y tế, thực hiện chính sách xã hội, và thậm
chí là ngay cả trong các cơ quan bảo vệ pháp luật và cơ quan phòng chống tham
nhũng. Bên cạnh đó, kết quả điều tra Chỉ số Năng lực Cạnh tranh Cấp tỉnh năm
2011 cũng cho thấy, tham nhũng đang là rào cản cho sự phát triển của các doanh
nghiệp trong nước và thu hút vốn đầu tư nước ngoài khi có tới hơn 52% số doanh
nghiệp được hỏi trả lời rằng họ phải chi trả dưới dạng tiền lót tay cho các cán
bộ hành chính địa phương, 7% số doanh nghiệp phải chi trả tới hơn 10% tổng thu
nhập của họ cho các khoản chi phí không chính thức. Rõ ràng, các hành vi tham
nhũng là nguy hại và cần được giảm thiểu nhằm cải thiện môi trường kinh doanh
trước khi Việt Nam
có thể đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế cao hơn trong dài hạn.
Bài viết này được trích lược từ cuốn Kinh tế Việt Nam: Từ chính sách bình ổn tổng cầu sang chính sách trọng
cung để thúc đẩy tăng trưởng dài hạn do các tác giả Phạm Thế Anh
(chủ
biên), Đinh Tuấn Minh và Nguyễn Thị Minh thực hiện. Xem giới thiệu sách ở
đây http://theanh98.blogspot.com/2013/03/gioi-thieu-sach.html