GTT.VN (20.11.2012) - Trong kỳ họp Quốc hội vừa qua, các đại biểu quốc hội tỏ ra rất quan tâm tới nợ của doanh nghiệp nhà nước (DNNN), nhất là về hiệu quả sử dụng vốn, tỷ lệ nợ xấu và các biện pháp khắc phục. Trong trả lời chất vấn bằng văn bản cho đại biểu, bộ trưởng bộ Tài chính Vương Đình Huệ đã đưa ra nhiều còn số khá giật mình về tình hình nợ của các DNNN. Tuy nhiên, người dân vẫn hầu như không biết gì về giải pháp để giải quyết bài toán nợ tại khu vực DNNN.
DNNN vay nợ nhiều nhưng không hiệu quả
Theo bộ trưởng Vương Đình Huệ thì tính tới thời điểm
31.12.2011, tổng số nợ phải trả của các tập đoàn kinh tế, tổng công ty
nhà nước là 1.292.400 tỉ đồng, tăng 18,9% so với 2010. Số nợ này bằng
khoảng 65,2% GDP của toàn nền kinh tế trong năm 2011.
Hệ số nợ phải trả/vốn chủ sở hữu bình quân năm 2011 là
1,77 lần. Đáng chú ý là có tới 30 tập đoàn, tổng công ty có tỷ lệ nợ
phải trả/vốn chủ sở hữu lớn hơn ba lần. Trong đó có tám đơn vị có tỷ lệ
trên mười lần, mười doanh nghiệp từ 5 – 10 lần, 12 tập đoàn, tổng công
ty từ 3 – 5 lần. Tỷ lệ vốn chủ sở hữu/tổng tài sản theo báo cáo hợp nhất
là 0,34 lần còn tỷ lệ tổng nợ phải trả/tổng nguồn vốn bình quân tính
theo số liệu báo cáo hợp nhất là 0,62 lần. Tỷ lệ tổng tài sản/tổng nợ
phải trả, theo báo cáo hợp nhất bình quân năm 2011 là 1,62 lần.
Qua phát biểu của bộ trưởng và các con số trên có thể
thấy, các tập đoàn, tổng công ty nhà nước đang hoạt động phụ thuộc phần
lớn vào nguồn vốn vay, dẫn đến chi phí tài chính lớn và khả năng thanh
toán nợ đến hạn thấp.
Mặc dù đi vay khá nhiều nhưng hiệu quả sử dụng vốn của
các DNNN lại rất thấp, chưa xứng đáng với vai trò là chủ lực của nền
kinh tế, cũng như các ưu đãi mà khu vực này được hưởng. So với các khu
vực kinh tế khác, hiệu quả kinh doanh của các DNNN ngày càng tỏ ra thua
kém. Các tập đoàn lớn hoặc rơi vào tình trạng vỡ nợ như Vinashin, hoặc
rơi vào cảnh thua lỗ lớn như Vinalines, tập đoàn Sông Đà…, hoặc rơi vào
cảnh không trả nợ đúng hạn như tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) đang nợ
quá hạn 10.149 tỉ đồng, tập đoàn Dầu khí đang nợ quá hạn 1.731 tỉ đồng,
các tổng công ty như Thuốc lá Việt Nam nợ quá hạn 467 tỉ đồng, Xây dựng
công trình giao thông 6 nợ quá hạn 128 tỉ đồng, Rau quả nông sản 30 tỉ
đồng.
Tuy hoạt động của khu vực DNNN kém hiệu quả như vậy
nhưng Chính phủ vẫn lúng túng trong việc tìm người chịu trách nhiệm.
Điển hình như vụ thất thoát hơn 10.000 tỉ đồng ở tập đoàn Sông Đà gần
đây vẫn được coi là chưa tới mức xử lý kỷ luật, và tập đoàn này chỉ phải
nộp lại ngân sách có 30 tỉ đồng.
Mặc dù bộ trưởng bộ Tài chính và thống đốc ngân hàng
Nhà nước (NHNN) đều không nêu cụ thể tỷ lệ nợ xấu của DNNN, nhưng có thể
ở mức khá cao qua các con số nợ quá hạn của các tập đoàn kể trên. Rõ
ràng rằng nếu như khu vực DNNN gây ra nhiều nợ xấu nhưng không thể phá
sản, thì gánh nặng chi trả cuối cùng sẽ thuộc về ngân sách nhà nước. Đây
sẽ là một áp lực rất lớn đối với ngân sách trong bối cảnh nợ công cao
và ngân sách nhà nước eo hẹp, đến nỗi khó khăn trong việc thực hiện tăng
lương tối thiểu theo kế hoạch trong năm 2013.
Xử lý nợ xấu trong khu vực DNNN: bài toán nan giải
Đối với các doanh nghiệp thông thường, ngân hàng thương
mại (NHTM) không gặp quá nhiều khó khăn khi thương lượng, xử lý các
khoản nợ xấu và có thể thanh lý tài sản đảm bảo khi cần thiết. Tuy
nhiên, với DNNN thì việc giải quyết nợ xấu lại khó khăn hơn nhiều do các
rào cản pháp lý đối với công sản.
Hầu hết các tài sản thế chấp (nếu có) của DNNN đều
thuộc quyền sở hữu của Nhà nước với các điều kiện ràng buộc phức tạp,
nên việc phát mại tài sản là không hề dễ dàng. Thông thường, các NHTM
thường bán tài sản thế chấp ở dưới mức giá gốc để dễ thanh lý nhưng theo
quy định thì các tài sản của Nhà nước không được bán thấp hơn giá trị
gốc, hay là giá trị sổ sách của DNNN. Phần lớn tài sản thế chấp lại là
bất động sản nên các NHTM lại càng khó khăn hơn trong xử lý nợ, khi mà
thị trường bất động sản đã đóng băng suốt hơn một năm qua. Đó là chưa kể
tới việc có nhiều khoản vay của DNNN dựa trên sự bảo lãnh của Nhà nước
thay vì có tài sản đảm bảo.
Nhìn chung, với các quy định pháp lý hiện nay, việc xử
lý các khoản nợ xấu của DNNN hiện nằm ngoài khả năng của hệ thống ngân
hàng. Trong khi đó, các cơ quan quản lý vẫn chưa thống nhất được các bên
liên quan phải chịu trách nhiệm về nợ xấu của khu vực này như thế nào.
Liệu các NHTM phải chịu thua lỗ và mất vốn do cho các DNNN vay, hay Nhà
nước sẽ dùng ngân sách nhà nước để bù đắp (một phần hoặc toàn bộ) các
thiệt hại do khu vực này gây ra hay sẽ bán tài sản của các DNNN, bất
chấp mức giá thấp hơn rất nhiều so với giá trị gốc trên sổ sách, để có
tiền trả nợ ngân hàng.
Để xử lý nợ xấu trong khu vực DNNN thì việc hình thành
công ty mua bán nợ xấu quốc gia (VMNC) mà NHNN đang đề xuất là chưa đủ.
Công ty này có thể không gặp vấn đề gì khi mua lại nợ xấu từ các tổ chức
tín dụng, nhưng sẽ gặp phải các vấn đề pháp lý mà các NHTM đang gặp
phải hiện nay liên quan đến việc bán tài sản của DNNN. Rõ ràng, để giải
quyết được nợ xấu của khu vực DNNN thì vẫn cần phải có sự tham gia trực
tiếp của một uỷ ban tái cấu trúc nền kinh tế trung ương có toàn quyền
quyết định về việc mua, bán tài sản của các DNNN. Cơ quan này sẽ phối
hợp với VMNC để việc xử lý các khoản nợ, thể hiện bằng việc sẵn sàng bán
các loại tài sản ở dưới mức giá trị sổ sách để lấy tiền trả các khoản
nợ xấu.
Tuy nhiên, ngay cả khi uỷ ban này được thành lập thì
việc thanh lý tài sản cũng không hề đơn giản do quy mô tài sản cần phải
bán cho các đối tác khác là rất lớn. Với tình hình thanh khoản thị
trường chứng khoán èo uột như hiện nay, và với 2/3 các mã chứng khoán có
thị giá dưới mức giá phát hành, thì việc mua lại tài sản của DNNN gần
như nằm ngoài khả năng của các cá nhân, tổ chức trong nước, ngay cả khi
giảm mạnh giá bán.
Vì thế một trong những vai trò quan trọng của VNMC và
uỷ ban tái cấu trúc nền kinh tế là phải tìm kiếm và bán các tài sản
thuộc khu vực DNNN cho các tổ chức nước ngoài, thì mới có thể giảm nhanh
được tỷ lệ nợ xấu. Nhưng đây là điều mà có vẻ như Chính phủ vẫn chưa
muốn đề cập tới.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét