SGTT.VN 17.07.2012 - Theo ông Nguyễn Hữu Nghĩa, quyền chánh thanh
tra, cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng thuộc ngân hàng Nhà nước, nợ
xấu của toàn bộ hệ thống tín dụng Việt Nam đến 31.3.2012 là hơn 202.000
tỉ đồng, chiếm 8,6% tổng dư nợ. Trong khi đó, tăng trưởng tín dụng đến
30.6.2012 chỉ khoảng 0,76% so với cuối năm trước. Tín dụng tăng trưởng
chậm là một nguyên nhân quan trọng khiến cho tăng trưởng GDP sáu tháng
đầu năm chỉ đạt 4,38%. Trong bối cảnh dư địa cho chính sách tiền tệ và
tài khoá hạn hẹp, thì nhiệm vụ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong sáu
tháng cuối năm của Chính phủ thực sự là một nan đề.
Dư địa chính sách tiền tệ nới lỏng đã hết
rước bối cảnh chỉ số giá cả (CPI) giảm mạnh, ngân hàng
Nhà nước (NHNN) đã nhanh chóng hạ trần các mức lãi suất chính sách cũng
như hạ trần lãi suất huy động từ mức 14% về mức 9%/năm. Tuần vừa qua,
NHNN còn yêu cầu các ngân hàng thương mại (NHTM) phải hạ lãi suất cho
vay xuống mức dưới 15%/năm. Đây là những động thái mạnh tay của NHNN để
hỗ trợ doanh nghiệp tiếp cận được nguồn vốn với mức chi phí thấp hơn
nhằm phục hồi sản xuất.
Tuy nhiên ngay cả khi CPI tiếp tục ở mức thấp, thì khả
năng hạ tiếp các lãi suất chính sách thêm nữa là điều rất khó khăn. Nếu
lãi suất huy động tiếp tục hạ, tỷ giá có thể sẽ diễn biến bất lợi, kéo
theo là lạm phát. Việt Nam đã phải gánh chịu những tác động đến hai chỉ
số vĩ mô này khi thực hiện chính sách kích cầu và chính sách tiền tệ nới
lỏng trong năm 2009. Lãi suất danh nghĩa huy động VND thấp sẽ khiến cho
đồng USD trở nên hấp dẫn hơn. Với mức lãi suất huy động USD hiện ở mức
2% và kỳ vọng lạm phát ở mức 6 – 7% thì rõ ràng mức lãi suất huy động
VND phải ở mức ít nhất là 9% thì mới hấp dẫn được người gửi tiền.
Tín dụng không tăng trưởng được dù lãi suất hạ có
nguyên nhân chính từ việc nợ xấu tăng cao và sự kém hấp thụ vốn của cả
nền kinh tế.
Theo khảo sát của viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung
ương, 46% doanh nghiệp được hỏi không có nhu cầu vay vì hàng tồn kho
nhiều, đang thu hẹp hoạt động sản xuất. Trong số 54% doanh nghiệp còn
lại, một phần muốn vay nhưng không vay được do có nợ quá hạn nhóm 3, 4,
một số khác không có nợ quá hạn nhưng tình hình tài chính không đảm bảo
hoặc không có phương án kinh doanh.
Chính sách tài khoá có thể gây rủi ro cho cả nền kinh tế
Khi chính sách tiền tệ không thực sự đem lại hiệu quả
mong đợi thì chính sách tài khoá có thể được áp dụng. Năm 2012, kế hoạch
đầu tư phát triển là 180.000 tỉ đồng, nửa cuối năm còn lại phải giải
ngân 98.000 tỉ đồng. Bên cạnh đó, kế hoạch sử dụng vốn trái phiếu chính
phủ là 45.000 tỉ đồng, từ nay cũng phải giải ngân gần 22.000 tỉ đồng mỗi
tháng. Tuy nhiên, việc thực hiện sẽ không thể tiến hành ồ ạt và với quy
mô đã được tính toán không khác nhiều so với các năm trước, nên tác
động lên nền kinh tế cũng sẽ không thực sự mạnh.
Chính phủ không thể mạnh tay giải ngân và tăng đầu tư
công do tỷ lệ nợ công/GDP của Việt Nam cuối 2011 đã ở mức cao 57,3%,
cách không xa ngưỡng an toàn 60% mà nhiều chuyên gia trong nước và quốc
tế khuyến cáo cho Chính phủ Việt Nam. Trong khi đó, chi phí cho việc
phát hành trái phiếu quốc tế để tài trợ rất lớn. Trong lần phát hành
trái phiếu quốc tế gần nhất của Chính phủ trị giá 1 tỉ USD, lãi suất
danh nghĩa là 6,75%/năm. Còn lãi suất phát hành của Vietinbank cũng lên
tới 8%/năm. Hiện nay, bài học khủng hoảng nợ công châu Âu vẫn chưa có
lời giải là một minh chứng cho những bất ổn của việc mạnh tay chi tiêu
công. Nợ công tăng cao, lợi tức trái phiếu leo thang sẽ khiến Chính phủ
mất khả năng chi trả. Thêm vào đó, xếp hạng tín nhiệm quốc gia có thể bị
hạ khiến việc huy động vốn quốc tế càng thêm khó khăn.
Mua nợ xấu: bước khởi đầu để tái cơ cấu nền kinh tế
Đẩy nhanh tiến trình xử lý nợ xấu đang là một trong
những vấn đề quan trọng nhất phải thực hiện lúc này. Tuy nhiên, cách
thức xử lý nợ xấu thế nào vẫn đang là một trong những vấn đề được bàn
thảo.
Tăng tỷ lệ trích lập dự phòng, giảm chi phí của NHTM để
bù đắp cho các tổn thất về nợ xấu là một trong những giải pháp quan
trọng. Nhiều NHTM nếu trích dự phòng đúng sẽ có lợi nhuận âm, vốn chủ sở
hữu sẽ chỉ ở mức rất thấp. Điều này sẽ buộc các NHTM phải tăng vốn qua
việc phát hành trái phiếu, phát hành cổ phần cho cổ đông hiện hữu hay
phát hành riêng lẻ. Trong khi thị trường tài chính trong nước chưa có sự
cải thiện, các ngân hàng khó có thể phát hành tăng vốn thành công nếu
không thực sự là ngân hàng tốt. Còn nếu tìm kiếm nguồn vốn từ nước ngoài
qua phát hành trái phiếu, chi phí sẽ cao hơn nhiều so với mức Vietinba
nk đã phát hành thành công. Tìm kiếm các cổ đông chiến lược nước ngoài
cũng đang là bài toán nan giải khi mà nhà đầu tư nước ngoài đang có dấu
hiệu giảm dần các khoản đầu tư gián tiếp tại Việt Nam.
Một giải pháp khác cũng được đưa ra là chứng khoán hoá
các khoản nợ xấu của các NHTM. Đây là giải pháp mà nhiều nước trên thế
giới đã áp dụng nhưng chủ yếu là các nước có thị trường tài chính phát
triển. Tại Việt Nam, thị trường tài chính chưa có tính thanh khoản cao,
nguồn lực trong nước còn yếu thì khả năng để chứng khoán hoá các khoản
nợ này sẽ khó khả thi.
Giải pháp khả thi nhất lúc này chính là giải pháp mua
bán nợ qua việc thành lập công ty mua bán nợ để mua lại nợ xấu của cả hệ
thống NHTM mà NHNN đề xuất. Chỉ có một cơ quan có thẩm quyền đặc biệt
giải quyết nợ xấu quốc gia mới có thể giải quyết nhanh được vấn đề nợ
xấu trong hệ thống ngân hàng hiện nay và đẩy được luồng tín dụng sạch ra
nền kinh tế.
Tuy nhiên, đây chỉ là giải pháp trong ngắn hạn nhằm
chuyển các khoản nợ xấu đang nằm rải rác ở các tổ chức tín dụng tập
trung tại một chỗ để có thể giúp cho quá trình xử lý nợ xấu được nhanh
hơn. Để tăng trưởng kinh tế có thể phục hồi trở lại thì mấu chốt vẫn là
tái cơ cấu nền kinh tế, đặc biệt là khu vực doanh nghiệp nhà nước. Nếu
nền kinh tế vẫn vận hành không hiệu quả thì một thời gian sau, nợ xấu sẽ
tiếp tục quay trở lại các ngân hàng.
Cho nên việc hình thành công ty mua bán nợ xấu quốc gia
và quá trình mua bán nợ xấu này chỉ là bước khởi đầu rất quan trọng của
quá trình tái cơ cấu. Nếu tái cơ cấu chậm chạp hoặc không thành công
thì nợ xấu tại công ty mua bán nợ xấu quốc gia sẽ không thể xử lý và sẽ
chuyển thành nợ công. Ngưỡng an toàn nợ công khi đó sẽ bị phá vỡ, đe doạ
sự phát triển bền vững của nền kinh tế.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét